Earth Story (1998) vietsub

  1. Trong 100 năm qua, các nhà khoa học đã bắt đầu khám phá đại dương và cố gắng giải đáp những bí ẩn dưới đáy biển. Manh mối đầu tiên là suy đoán về hình dạng của lục địa. Vào đầu thế kỷ 20, Wegener phát hiện ra rằng đường viền của bờ biển Nam Phi và bờ biển Nam Mỹ trùng khớp nhau. Đây chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, hoặc hai lục địa này là của nhau. ban đầu được kết nối với nhau. Wegener bắt đầu nghiên cứu đá ở cả hai bờ Đại Tây Dương và phát hiện ra những điểm tương đồng giữa hai bên, một hóa thạch có tên Glossary Fern đã được khai quật ở cả hai bờ Đại Tây Dương và cũng được tìm thấy ở Nam Cực. thuyết “trôi dạt lục địa” nổi tiếng.
  2. Đề xuất về giả thuyết “lục địa trôi dạt” vào thời điểm đó không gây ra nhiều hậu quả, thậm chí người ta còn đưa ra chỉ trích và phản đối vì giả thuyết này không đưa ra lời giải thích thuyết phục về việc các lục địa trôi dạt như thế nào. Quan điểm của giới khoa học lúc bấy giờ là bề mặt trái đất có những gợn sóng, đáy biển dâng cao, đất sụp xuống sẽ tạo thành những cầu nối đất liền để các loài động thực vật di cư qua đó. ban đầu phổ biến do tính chất “tiên tiến” của nó nhưng không được mọi người chấp nhận.Sau này, khi ngày càng có nhiều bằng chứng xuất hiện, giả thuyết “lục địa trôi dạt” nổi lên và trở thành một trong những giả thuyết địa chất kinh điển nhất.
  3. Do nhu cầu chiến tranh trong Chiến tranh Lạnh, con người bắt đầu sử dụng khả năng định vị bằng tiếng vang để khảo sát và lập bản đồ đáy biển, thế giới dưới nước dần trở nên rõ ràng hơn trong mắt mọi người. Các nhà khoa học đã có một khám phá đáng kinh ngạc: sống núi giữa đại dương ở giữa Đại Tây Dương trải dài hơn 60.000 km, dài hơn bất kỳ dãy núi nào trên đất liền và có các thung lũng tách giãn trên sống núi giữa đại dương. Vào cuối Thế chiến thứ hai, người ta đã sử dụng phương pháp "địa chấn" và dựa trên cách âm thanh dội lại từ các lớp đá khác nhau, họ phát hiện ra rằng lớp vỏ đại dương trung bình chỉ dài 6 km thay vì 30 km của lớp vỏ lục địa, và các cấu trúc cũng giống như vậy. tất cả đều giống nhau. Điều này cho thấy lớp vỏ đại dương được hình thành khác với các lục địa.
  4. Những năm gần đây, với sự phát triển của công nghệ lặn biển sâu, con người ngày càng khám phá đại dương nhiều hơn. Bằng cách nghiên cứu các tảng đá sống giữa đại dương được mang về từ đáy biển, các nhà khoa học phát hiện ra rằng những tảng đá này là đá bazan (một loại đá lửa) và còn rất trẻ. Nhà địa chất Hess đã tổng hợp nhiều dữ liệu nghiên cứu khác nhau và đề xuất lý thuyết "sự lan rộng của đáy biển": Các rặng núi giữa đại dương được tạo ra bởi các vụ phun trào núi lửa dưới biển và dung nham núi lửa được tạo ra lan sang cả hai phía. Toàn bộ quá trình giống như một băng chuyền, và lục địa nằm trên băng chuyền này. Nhiều bằng chứng khác nhau đã cho thấy tính chất khoa học của phỏng đoán Wegener, sau nhiều năm, lý thuyết “trôi dạt lục địa” dần dần được cộng đồng khoa học chấp nhận.
  5. Khi các nhà khoa học đo từ tính của đá vỏ đại dương, họ phát hiện ra rằng hướng từ trường của nhiều tảng đá dưới đáy biển hoàn toàn ngược lại với từ trường Trái đất hiện tại, điều này cho thấy từ trường Trái đất đã bị lệch trong lịch sử. Nếu lý thuyết "sự giãn nở đáy biển" là đúng thì từ trường của đá ở hai bên sườn núi giữa đại dương phải đối xứng, suy đoán này sau đó đã được xác nhận là đúng. Lý thuyết "sự giãn nở đáy biển" đã được kiểm nghiệm Và đã được xác nhận. Ở một mức độ nào đó, nó cũng ủng hộ giả thuyết "lục địa trôi dạt".
  6. Mặc dù lý thuyết “sự lan rộng đáy biển” có giá trị khoa học nhất định nhưng các nhà khoa học vẫn chưa tận mắt chứng kiến ​​việc tạo ra các rặng núi giữa đại dương là do núi lửa phun trào cho đến khi con người có thể tự mình lặn xuống đáy biển. Các nhà khoa học đã phát hiện ra những "ống khói đen" dưới đáy biển, từ đó chất lỏng nóng phun trào và những tảng đá hình chiếc gối, tất cả đều là bằng chứng về sự tồn tại của núi lửa. Điều khiến các nhà khoa học ngạc nhiên nhất là ở đây có sinh vật sống (cá, tôm, v.v.), sau khi phân tích DNA của vi khuẩn ở đây, các nhà khoa học phát hiện ra rằng vi khuẩn dưới biển sâu là dạng sống nguyên thủy nhất trong hệ thống tiến hóa của trái đất. Những vi khuẩn này có thể là loài đầu tiên trên trái đất. Hậu duệ trực tiếp của một nhóm sinh vật.